Nhà máy hóa chất dầu mỏ Hoa Phong là một trong những thế lực bá đạo bậc nhất ở Cảng Thành. Trước kia, dọc con đường này từng có không ít xưởng dệt, công ty văn phòng phẩm, xưởng thủ công mỹ nghệ. Tất cả đều lần lượt bị nhà máy hóa chất này cưỡng chế di dời.
Theo quy định của pháp luật Cảng Thành, các xưởng công nghiệp nặng như vậy phải đặt ở nơi xa khu dân cư, tuyệt đối không được gần nội thành, càng không thể nằm chắn đầu hướng gió gây ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt bình thường của người dân. Ngoài ra, mọi khí thải và nước thải đều buộc phải xử lý đúng quy chuẩn, tuyệt đối cấm xả thải bừa bãi. Hằng năm còn phải chịu sự giám sát và kiểm tra chất lượng môi trường nghiêm ngặt.
Nhưng Hoa Phong thì sao?
Không một điều luật nào được tuân thủ.
Từ khi mới xây dựng, nhà máy này đã gây ô nhiễm trầm trọng. Người dân sống gần khu vực đó từng nhiều lần kéo nhau đến Sở Cảnh sát và Cục Bảo vệ Môi trường kêu cứu, nhưng kết quả gần như bằng không.
Lý do rất đơn giản: phía sau Hoa Phong là Đoạn gia.
Đoạn gia là một thế lực rễ sâu gốc vững ở Cảng Thành. Có thời điểm, thực lực của họ còn có thể ngang hàng với Cố gia. Nhưng khác với Cố gia vốn gây dựng bằng các mối làm ăn đàng hoàng bên ngoài, thì Đoạn gia lại xuất thân từ thế giới ngầm, bước lên bằng “tiền bẩn” và những phi vụ mờ ám. Chính vì thế mà họ phất lên nhanh, leo đến vị trí cao chỉ trong thời gian ngắn.
Về sau, khi Cảng Thành bắt đầu thanh trừng thế lực ngầm, nhiều địa bàn của Đoạn gia lần lượt bị xóa sổ. Tuy nhiên, những khu vực bị thanh trừng đó đối với Đoạn gia mà nói chỉ như bỏ bớt vài nhánh cây, không đụng đến gốc, càng không chạm tới mạch máu chính của họ.
Nhưng rắc rối thực sự nằm ở chỗ: một khi đã bị nhắm tới, thì thanh kiếm treo lơ lửng trên đầu sẽ luôn khiến họ sống trong trạng thái sẵn sàng bị chặt đứt bất cứ lúc nào.
Kể từ đó, Đoạn gia bắt đầu thu mình lại. Các lĩnh vực nhạy cảm thì né tránh, những vụ làm ăn dễ bị “sờ gáy” thì giao cho người khác đứng tên, tìm vài con tốt có tiếng nói, đưa ra làm người chịu tội thay. Sau lưng, họ cắt vài “cánh tay”, bỏ vài “dòng máu phụ” để giữ lại được thân thể chính.
Từ kẻ từng một thời là “bá vương long” ở Cảng Thành, Đoạn gia rốt cuộc cũng bị chặt gãy đôi cánh, thành tàn tật.
Và họ buộc phải sống im lặng hơn xưa rất nhiều.
Dĩ nhiên, mấy chuyện đó cùng lắm chỉ khiến Đoạn gia mất chút tiền, địa vị có thể tụt một bậc so với thời kỳ huy hoàng, nhưng ở Cảng Thành, quyền lực phát ngôn của Đoạn gia vẫn vượt xa phần lớn các gia tộc giàu có khác. Chính vì thế, nhà máy hóa chất dầu mỏ Hoa Phong mới có thể đứng vững suốt nhiều năm mà không sụp đổ.
Tới sở cảnh sát, Cố Ứng Châu dẫn Lục Thính An đi thẳng đến bộ phận giám định kỹ thuật. Tiểu Hà đang uống nước, vừa thấy hai người thì lập tức bị sặc:
“Sếp Cố, sếp Lục, hai anh ra ngoài điều tra cơ mà? Mới đó đã về rồi?”
Cố Ứng Châu không vòng vo:
“Đã từng kiểm nghiệm mức độ ăn mòn trong nước thải ở cống nước sâu chưa?”
Tiểu Hà sững người:
“Hiện tại thì chưa. Thành phần trong nước thải rất phức tạp, có đủ loại dầu bẩn, virus, thủy ngân, chì… Tôi có thấy bao bỏ thi dính đầy rêu xanh, chứng tỏ khu vực đó rất ẩm thấp, tối tăm, rêu mọc nhiều. Sếp Cố, có phải anh tìm được manh mối gì quan trọng liên quan đến hệ thống thoát nước?”
Cố Ứng Châu gật đầu:
“Cống nước sâu nối liền toàn bộ khu phố Quế Lâm. Nhà máy hóa chất dầu mỏ Hoa Phong nằm ở phía nam khu này, là nguồn thải chính cho toàn hệ thống.”
Nghe đến tên Hoa Phong, Tiểu Hà lập tức nhớ lại vụ ồn ào năm xưa. Khi nhà máy vừa xây xong, phản đối bùng nổ dữ dội.
Khi đó, do lượng nước mưa tăng, người dân phát hiện hoa trên ban công bắt đầu đổi màu, có dấu hiệu héo úa bất thường, trẻ nhỏ thì liên tục phát bệnh. Sau khi xét nghiệm, họ phát hiện chất lượng nước trong khu thay đổi rõ rệt, và Hoa Phong nghiễm nhiên trở thành nghi phạm hàng đầu.
Hàng trăm người kéo nhau đến trước cổng sở cảnh sát và nhà máy, giăng băng rôn biểu tình. Một vài người dân xui xẻo bị bắt vì gây rối trật tự công cộng.
Cảnh sát khi ấy cố gắng điều đình giữa hai bên, nhưng không có kết quả. Không lâu sau đó, mọi chuyện leo thang:
Người cầm đầu biểu tình bị một kẻ say rượu đâm cụt chân trên đường về nhà. Người khác bị đánh đến hôn mê, nằm liệt giường không tỉnh lại. Những người “may mắn” hơn thì bị trộm phá nhà, mất sạch tài sản.
Ai cũng biết đứng sau là Đoạn gia. Nhưng kẻ gây án: người lái xe, đám côn đồ đều “không người thân, không quan hệ”, thuộc diện nằm ngoài vòng kiểm soát của cảnh sát. Những người tố giác thì sợ hãi, không ai dám đứng ra chỉ tên Đoạn gia. Mọi thứ đều không có bằng chứng cụ thể.
Từ đó, nhà máy hóa chất Hoa Phong trở thành vùng cấm. Không ai dám làm chim đầu đàn đứng lên phản kháng nữa, chỉ biết âm thầm nguyền rủa và hy vọng nó sớm bị đóng cửa.
Nhưng thực tế luôn lạnh lùng chứng minh một điều: càng vô lương tâm, việc làm ăn lại càng phát đạt.
“Nhà máy hóa chất Hoa Phong thải ra không ít hợp chất hóa học mang tính axit,” Tiểu Hà trầm ngâm nói. “Tuy có bị hòa tan qua nhiều dòng nước, nhưng tính ăn mòn vẫn còn, đặc biệt là khi tích tụ lâu ngày.”
Bỗng đôi mắt cậu sáng lên, quay phắt về phía Cố Ứng Châu:
“Sếp Cố, tôi hiểu rồi! Ý anh là xác của Phùng Tứ Nguyệt bị ngâm lâu trong loại nước thải chứa axit, nên tốc độ phân hủy mới bất thường như vậy! Tuy mới mất tích chưa đến hai năm, nhưng giám định pháp y lại cho kết quả tử vong cách đây ít nhất hai năm rưỡi! Là do nhà máy gây ra!”
Cố Ứng Châu gật đầu, bình tĩnh:
“Hiện tại mới là phỏng đoán.”
Tiểu Hà vội khoác áo:
“Em sẽ báo ngay cho pháp y Sầm, đồng thời cử người đến lấy thêm mẫu nước ở cống nước sâu để thí nghiệm!”
Nhưng rồi cậu lại lo lắng:
“Chỉ sợ thời gian lâu vậy rồi, cống thoát nước bị tổng vệ sinh thì sao?”
Cố Ứng Châu nhếch môi cười, giọng lạnh như gió mùa đông:
“Chỉ cần nhà máy vẫn chưa bị xử lý, thì nước bẩn vẫn ở đó.”
Đúng lúc này, Sầm Khả Dục bước vào phòng:
“Có việc gì cần tôi à?”
“Vừa hay,” Tiểu Hà nói, “Em có một suy đoán, muốn kiểm nghiệm tính ăn mòn của nước thải để xác định thời gian phân hủy của thi thể Phùng Tứ Nguyệt có bị ảnh hưởng hay không.”
Sầm Khả Dục gật đầu:
“Độ axit, nhiệt độ nước, vi khuẩn,...tất cả đều có thể đẩy nhanh quá trình phân hủy. Muốn biết cụ thể, phải thử nghiệm trực tiếp trên mẫu nước lấy về.”
Tiểu Hà đáp một tiếng rồi rời đi. Cậu còn rất nhiều việc phải làm, tìm lấy hai mẫu nước: một là từ khu vực chưa ô nhiễm gần nhà máy, một là từ chính cống thoát nước sâu. Sau đó sẽ dùng hai miếng thịt heo để ngâm vào mỗi mẫu nước.
Chỉ có qua thí nghiệm, họ mới biết được chính xác bao nhiêu phần trăm cái chết của Phùng Tứ Nguyệt là do nước thải ăn mòn.
Ba người, một khi đứng cùng một chỗ, bầu không khí lập tức trở nên căng như dây đàn. Nhưng lần này Sầm Khả Dục không phải đến để đối đầu. Nghe Lê Minh nói Lục Thính An vừa quay lại là lập tức tới khoa giám định, anh biết chuyện gấp nên đích thân đến tìm.
Suy nghĩ vài giây, Sầm Khả Dục lên tiếng:
“Về nạn nhân Tiểu Bảo… tôi có một vài phát hiện mới.”
Nghe đến cái tên đó, ánh mắt Lục Thính An lóe lên một tia cảm xúc khác thường. Cậu che giấu rất nhanh, cúi đầu ngay lập tức, nên ngay cả Sầm Khả Dục đang đối diện cũng không nhận ra điều gì khác lạ.
“Phần dưới cơ thể nạn nhân bị cắt bỏ, các cơ quan nội tạng cũng bị lấy đi, vì vậy không thể xác định thời gian tử vong thông qua gan. Dựa vào độ cứng cơ thể và tình trạng hoại tử, tôi ước đoán cái chết xảy ra cách đây khoảng hai ngày. Nhưng do nhiệt độ trên núi khá thấp, thời gian thực có thể còn sớm hơn vài tiếng.”
Giọng của Sầm Khả Dục đều đều, không mang theo cảm xúc nào rõ ràng. Không có chút thương cảm dành cho một đứa trẻ. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh vô cảm, chỉ là làm pháp y suốt gần mười năm, anh đã quá quen với các loại thi thể bị hủy hoại nặng nề, và những nạn nhân giống như Tiểu Bảo, thật ra… chưa phải là đáng sợ nhất.
Chính vì càng tiếp xúc nhiều với cái chết, anh càng tin rằng mỗi người ra đi đều cần có một công lý cuối cùng.
“Tôi phát hiện ở hốc mắt và vết dao xuyên từ ngực xuống bụng có dấu hiệu phản ứng sinh học. Các mạch máu gần tim có hiện tượng sưng viêm. Điều đó cho thấy nạn nhân bị moi mắt trước tiên khi còn sống. Khoảng mười tiếng sau, nội tạng như tim và gan mới bị lấy đi.”
“Trong máu có hàm lượng lớn thuốc mê. Chứng tỏ khi chết, cậu bé không còn tỉnh táo. Đây có thể xem là điều duy nhất có thể gọi là… nhân đạo trong một vụ giết người kinh khủng như vậy. Ít nhất hung thủ không để cậu ấy cảm nhận hết mọi cơn đau. Nhưng mặt khác, điều này cũng chứng minh hung thủ rất hiểu về y học, biết cách dùng thuốc, và có thể thực hiện phẫu thuật lấy nội tạng.”
Sầm Khả Dục dừng lại một chút, rồi nói tiếp:
“Móng tay nạn nhân có rất nhiều vết máu, đa phần là của chính cậu bé. Nhưng đặc biệt, ở ngón giữa tay phải, tôi phát hiện mô da không thuộc về nạn nhân. Trong một vết nứt dưới móng tay còn có sợi vải, rất có thể là vải áo của hung thủ. Tôi tin rằng trước khi bị tiêm thuốc mê, cậu bé đã chống cự. Dù sức yếu, nhưng vẫn cố giãy giụa đến mức móc được một mảng da của đối phương. Mẫu mô đó, một khi xét nghiệm ADN, sẽ là bằng chứng cực kỳ quan trọng.”
Phản ứng *****ên của Lục Thính An là muốn mang mẫu mô đó đi so với ADN của mẹ Phùng Tứ Nguyệt. Bởi lẽ nếu mô da dưới móng Tiểu Bảo chính là của cô ta, thì vụ án xương trắng và vụ giết Tiểu Bảo sẽ có một mắt xích kết nối then chốt.
Nhưng khi lời định thoát khỏi miệng, Lục Thính An lại lập tức ngậm lại.
Cậu suýt nữa lỡ lời.
Bởi vì hiện tại, ai cũng cho rằng một trong những bộ hài cốt là của Phùng Tứ Nguyệt. Mất tích, đúng khớp thời gian, cũng không ai khác phù hợp. Mà Cố Ứng Châu vừa mới xác minh lý do khiến thi thể bị ăn mòn bất thường. Nếu ngay lúc này, cậu đột ngột nêu nghi vấn rằng Phùng Tứ Nguyệt… còn sống, thì chẳng khác gì tự biến mình thành kẻ phá hoại điều tra, là tâm điểm chỉ trích.
Huống hồ, ngay cả bản thân cậu cũng chưa hiểu nổi tại sao Phùng Tứ Nguyệt lại thay đổi đến mức không còn giống người trong ký ức.
Cố Ứng Châu tinh ý bắt được nét do dự, ánh mắt lập tức dừng lại trên người Lục Thính An:
“Cậu có gì muốn nói?”
Trái tim Lục Thính An khựng lại nửa nhịp. Cậu gắng gượng làm ra vẻ ngơ ngác,
“Tôi có gì đâu mà nói nha.”
“Thật không?” Cố Ứng Châu nheo mắt, không vạch trần cậu.
Một người vốn chẳng bao giờ dùng từ cảm thán, nay lại kết câu bằng chữ “nha” đầy vẻ ngụy biện, chỉ có hai khả năng: hoặc tâm trạng rất tốt, hoặc đang giấu giếm điều gì đó và muốn chuyển hướng chú ý. Với Lục Thính An rõ ràng là vế sau.
Nhưng nếu cậu chưa muốn nói, nghĩa là trong lòng vẫn còn khúc mắc. Cố Ứng Châu cũng không truy cùng đuổi tận.
Sầm Khả Dục chẳng để tâm tới đoạn đối thoại mờ ám đó. Hoặc là anh nghe không hiểu ẩn ý trong từng chữ, hoặc là… anh vốn dĩ không quan tâm.
“Tiếp theo các cậu định đi đâu?” Anh hỏi Lục Thính An.
“Đến tiểu khu Tân Cùng, khu Cửu Long Cương. Tìm hiểu quan hệ xã hội của Phùng Tứ Nguyệt trước khi mất tích.”
Sầm Khả Dục không hề khách sáo, lập tức đi sát lại, “Thêm tôi một người. Bên pháp y hiện tại không có gì cấp bách.”
Lục Thính An theo phản xạ nhìn sang Cố Ứng Châu, ngụ ý nói:
“Tôi thích yên tĩnh hơn.”
Sầm Khả Dục cau mày:
“Tôi là người nói nhiều lắm à?”
Từ trước đến nay chưa từng có ai nói thế. Ngay cả thầy giáo của anh còn từng phàn nàn rằng mỗi lần bắt anh chia sẻ kinh nghiệm giám định đều chỉ nhận được vài chục chữ, như thể sợ bị học trò khác… trộm mất kỹ thuật nghề.
Sầm Khả Dục thấy mới lạ. Người như Lục Thính An quả thật khác biệt. Khó trách cậu lại có thể thoát khỏi quỹ đạo cốt truyện định sẵn, trở thành ngoại lệ duy nhất trong một thế giới bất biến.
Lục Thính An lắc đầu, chỉ vào Sầm Khả Dục rồi lại chuyển tay về phía Cố Ứng Châu:
“Hai người các anh, một người như khí Flo, một người như Phốt-pho. Khi mà gom lại thì… thành một đám cháy to.”
Cố Ứng Châu: “……”
Sầm Khả Dục: “…”
Flo là nguyên tố phi kim có tính oxy hóa mạnh nhất, còn phốt-pho là kim loại có khả năng hoàn nguyên mạnh nhất. Cả hai vốn dĩ, khi tách riêng, đều rất ổn định trong lĩnh vực của mình. Nhưng nếu đặt cạnh nhau, phản ứng hóa học bùng nổ gần như không thể kiểm soát.
Ý của Lục Thính An rất rõ: hai người kia mà cùng cộng tác, thể nào cũng ồn ào đến mức cậu đau đầu.
Sầm Khả Dục không phải người chậm hiểu. Chỉ một thoáng, anh đã hiểu ra ngay ẩn dụ đó.
Anh bật cười, vẻ mặt bất lực, “Được, cậu cứ việc giám sát. Hôm nay nếu tôi còn mở miệng gây sự với cậu ta trước, thì tôi sẽ theo họ Cố luôn.”
Lục Thính An nghiêng đầu, tỉnh bơ tiếp lời: “Gì cơ, anh định dùng cách đó để gả vào nhà họ Cố à?”
“…”
Nụ cười của Sầm Khả Dục suýt thì cứng lại trên môi.
Dù gì thì nhà họ Sầm anh cũng chưa nghèo đến mức phải gả vào một nhà khác.
Xe rẽ vào tuyến đường chính dẫn đến khu Cửu Long Cương. Càng tiến vào, xe cộ trên đường càng thưa thớt.
Khu Tân Cùng nằm ở vị trí trung tâm của Cửu Long Cương, chia thành ba khu nhà rõ ràng. Phía trước là dãy chung cư có thang máy, mười hai tầng lầu, phía giữa là sáu dãy nhà năm tầng không có thang máy nhưng diện tích bên trong lại rộng rãi hơn. Còn phía sau cùng là khu biệt thự, vừa cao cấp vừa rộng rãi, từng là nơi náo nhiệt nhất trong khu.
Dù đã lâu không còn thịnh vượng, dấu vết náo nhiệt ngày xưa vẫn còn sót lại: đèn màu treo lủng lẳng trên cây, hai bên đường dựng biển hiệu như “Dừng xe văn minh” hay “Cẩn thận đi bộ” những khẩu hiệu ấm lòng một thời.
Nhưng bây giờ thì sao? Bãi đỗ trống trơn, ban công nhà cửa cũng chẳng còn mấy nơi phơi quần áo hay chăn màn.
Cửu Long Cương từng được quảng bá quá mức. Năm đó, người đủ điều kiện chuyển đến nơi này phần lớn cũng đủ năng lực để rút đi. Giờ chỉ còn lại những người thực sự thích nơi này, hoặc là… chẳng còn nơi nào khác để đi, đành mỗi ngày tự mắng mình vì đã tin sai chỗ.
Căn 505 ở tầng 7 nằm trong dãy nhà giữa, dãy không có thang máy, mỗi tầng có sáu căn hộ. Tuy bất tiện khi lên xuống, nhưng hành lang rộng rãi, lại được dọn dẹp rất sạch sẽ. Trừ khi quá mệt, nếu không thì leo thang bộ ở đây cũng xem như một kiểu rèn luyện thể chất.
Ba người lên đến tầng năm, vừa rẽ qua chiếu nghỉ thì mùi máu tươi nhàn nhạt bất chợt ập đến. Ngay sau đó là tiếng mắng bực tức của một người phụ nữ:
“Trên đời lại có loại người như vậy! Dám ném mèo chết trước cửa nhà người ta, không sợ bước ra đường bị xe đâm chết à?!”
Nghe đến chữ “chết”, ba người lập tức đẩy nhanh bước chân. Vừa rẽ qua, họ thấy một người phụ nữ khoảng hơn năm mươi tuổi đang đứng trước cửa căn 506, tay chân lóng ngóng vì một con mèo lông vàng đã chết cứng nằm trên mặt đất đầy máu.
Tuy miệng bà vẫn liên tục mắng chửi, nhưng nét hoảng loạn và đau lòng trên gương mặt lại hoàn toàn thật, không hề có chút giả tạo. Bà đang thực sự thương con mèo, rồi mới đến tức giận vì bản thân bị kéo vào trò đùa ác độc này.
Họ tiến lại gần, hỏi:
“Dì ơi, có chuyện gì xảy ra vậy?”
Người phụ nữ nhìn thấy ba thanh niên đến, quan sát kỹ vài lần rồi như tìm được chỗ dựa, giọng nói cũng dần ổn định:
“Là thế này, sáng nay tôi không có ra ngoài. Ăn trưa xong định xuống sân phơi nắng một lúc. Không ngờ vừa mở cửa thì thấy con mèo chết nằm đó rồi. Các cậu nhìn mà xem, máu me đầy cả đất! Nếu tâm lý tôi không đủ vững, chắc giờ bị dọa chết rồi!”
Lục Thính An liếc nhanh qua cửa căn 506. Bên trái là căn 504, bên phải là 508. Đối diện là dãy 503, 505 và 507.
Ngoài cửa căn 506 có rất nhiều vệt máu kéo dài cùng dấu vết bị lôi. Các căn khác thì sạch như chưa từng có chuyện gì xảy ra, con mèo chết như thể chỉ xuất hiện đúng trước cửa 506.
Người phụ nữ để họ đứng tạm ngoài cửa, rồi chạy vội vào trong. Một lát sau, bà mang ra một tấm thảm cũ nhưng được giặt sạch sẽ, nhẹ nhàng phủ lên xác con mèo như đang làm lễ. Bà còn lẩm bẩm vài câu kinh Phật.
Lục Thính An hỏi:
“Dì có xích mích với ai gần đây không?”
Dì Quỳnh không cần nghĩ ngợi, lập tức chỉ tay về phía căn 507 đối diện, giọng chắc nịch:
“Nhất định là hắn!”
“Trong đó là ai?” một người hỏi.
“Là một giáo viên tiểu học ở khu này.” Dì Quỳnh nói: “Hôm qua tôi mới cãi nhau với hắn một trận. Hắn muốn đưa học sinh về nhà để dạy thêm, nhưng lại không quản nổi lũ nhóc. Chính mắt tôi thấy đám học trò của hắn ném vỏ chuối và bóng nước ở cầu thang. Trong tòa nhà này có mấy cụ già còn lớn tuổi hơn tôi, lỡ trượt ngã thì ai chịu trách nhiệm? Tôi nói thật, nhân cách kiểu đó thì dù có làm thầy giáo cũng chỉ là đồ mất nết! Mà hắn thì hở tí là giăng cờ ngoài ban công, trong nhà thì treo đầy khẩu hiệu đỏ, tôi nhìn thế nào cũng thấy ngứa mắt!”
Bà thở dài nặng nề, ánh mắt đau xót:
“Con mèo vàng này chưa đến một tuổi, ngày nào tôi xuống lầu cũng cho nó ăn một chút. Nó quen tôi, cứ thấy tôi ra là chạy từ lùm cây tới cọ chân tôi một cái. Nhưng cái tên ở 507 đó thì ghét mèo ra mặt! Thấy tôi cho mèo ăn còn nhổ nước bọt xuống bãi cỏ nữa. Tôi không ngờ hắn lại nhẫn tâm đến mức ra tay giết nó như vậy. Hắn không sợ báo ứng sao?”
Hôm nay là ngày đi làm nên gã đàn ông ở căn 507 không có ở nhà, vì thế giọng dì Quỳnh cũng chẳng buồn hạ thấp. Giọng bà vừa dứt, cánh cửa căn hộ bên trái 504 cọt kẹt mở ra. Một cái đầu thò ra khỏi khe cửa.
Đó là một người đàn ông gầy nhỏ, vóc dáng không đến 1m65. Hắn đeo kính, tóc dài phủ che cả tròng kính, mặt đầy râu, da nhờn bóng như lâu rồi chưa rửa mặt, trông không khác gì một “trạch nam” trong game giả tưởng.
Thấy có người đứng ngoài hành lang, hắn đảo mắt quan sát từng người rồi mới quay sang dì Quỳnh, hỏi:
“Dì Quỳnh, có chuyện gì vậy ạ?”
Ánh mắt vừa chạm tới vệt máu dưới đất, hắn giật mình rụt cổ lại:
“Trời ơi, là ai ném xác động vật trước cửa nhà dì để nguyền rủa vậy?!”
Dì Quỳnh thở dài, thấy ba người cùng lúc quay sang nhìn “trạch nam”, bà lập tức hồ hởi giới thiệu:
“Cậu này tên là Tiểu Lễ. Đừng để vẻ ngoài của nó đánh lừa nhé, lôi thôi luộm thuộm vậy thôi nhưng ngoan lắm, lịch sự y như cái tên.”
Rồi bà hừ lạnh, chỉ vào căn 507:
“So với tên ở 507 thì Tiểu Lễ tử tế hơn nhiều. Hôm qua nó với bạn gái có ca hát hơi ồn, tôi gõ cửa thì nó lập tức xin lỗi, sau đó im re để tôi ngủ ngon lành. Nếu ai cũng như nó, tôi còn ở lại cái khu này thêm mấy năm cũng không sao!”
Được khen, Tiểu Lễ gãi đầu cười ngượng:
“Dì nói quá rồi, sống chung một dãy nhà, dì còn hay cho cháu đồ ăn, cháu phải cảm ơn dì mới đúng.”
Ánh mắt dì Quỳnh càng lúc càng thân thiết khi nhìn cậu hàng xóm trẻ.
Không khí vừa ấm lên chút thì bất ngờ bị tiếng cười lạnh của Cố Ứng Châu cắt ngang.
“Nếu ai cũng như hắn, cửa nhà dì có thể mở tiệm… tang lễ thú nuôi rồi đấy.”
Dì Quỳnh hoảng hốt. Còn Tiểu Lễ thì giật bắn người, run rẩy lắp bắp:
“Các… các anh nói gì vậy?!”
Lục Thính An nửa cười nửa nghiêm, giọng mỉa mai:
“Chẳng thấy lịch sự chút nào đâu.”
Tiểu Lễ đẩy gọng kính, phản bác:
“Mấy người nói chuyện vô lễ với tôi, còn muốn tôi lịch sự đáp lại? Tôi là người, không phải bột nhào không có cảm xúc đâu nhé!”
Lục Thính An gằn giọng, ánh mắt sắc lẻm:
“Anh là đồ trạch nam mặt dày, không chỉ thô lỗ mà còn độc ác. Dám ngược đãi mèo, lấy xác nó hù dọa người già, có bản lĩnh thì đối đầu trực diện, chứ đừng giở trò đê tiện!”
Dì Quỳnh sửng sốt, không tin nổi nhìn hắn:
“Tiểu… Tiểu Lễ, cháu…”
“Dì Quỳnh, chúng ta làm hàng xóm đã hơn một năm, dì tin mấy người xa lạ này hơn tôi sao?!”
“Không phải… nhưng mà…” bà lúng túng nhìn qua lại giữa hai bên, không biết nói gì.
Lục Thính An không kiên nhẫn thêm nữa:
“Chuyện ầm ĩ đến thế, vết máu đầy đất, mà phản ứng *****ên của anh không phải nhìn xuống xác mèo, mà là ngẩng lên nhìn bọn tôi. Quá kỳ lạ.”
“Dì lấy thảm đắp xác mèo, anh còn chưa thấy gì mà đã gọi đúng là ‘xác động vật’? Anh mở được con mắt thấu thị à? Cho tôi mở ké một con với, xem trong đó chứa bao nhiêu thứ dơ bẩn.”
Tiểu Lễ chột dạ, siết chặt tay nắm cửa.
“Chỗ này cách âm kém, tôi nghe dì nhắc đến mèo chết nên đoán thôi…”
Lục Thính An cắt lời:
“Nếu đã nghe được, thì sao giờ mới ló mặt? Tôi đoán anh nấp trong cửa rình, chờ người ta nghi ngờ 507 thì mới yên tâm ra hóng chuyện. Bởi anh biết, với phong cách thường ngày của mình, dì Quỳnh sẽ không bao giờ nghi ngờ anh.”
Giọng anh chậm rãi lạnh tanh:
“Cánh tay trái anh có vết xước bị mèo cào phải không?”
Tiểu Lễ giật mình che tay theo phản xạ. Nhưng khi ngẩng lên, ánh mắt hắn chạm đúng nụ cười giễu cợt và ánh nhìn chán ghét từ Lục Thính An. Cậu nói tiếp:
“Lừa cậu thôi. Tôi đâu có con mắt thấu thị.”
“…”
Nói đến đây, không cần thêm gì nữa, dì Quỳnh cũng đã hiểu. Bà quay sang nhìn hắn, giọng run rẩy vì thất vọng:
“Vì sao cháu lại làm chuyện đó?!”
“Cháu làm gì chứ? Cháu chẳng làm gì cả!”
Một cú kết thúc đến từ Sầm Khả Dục. Anh liếc vào phòng 504, gợi ý lạnh băng:
“Hay để chúng tôi vào xem thử nhé? Áo anh còn ướt kìa, vừa từ nhà vệ sinh ra à? Đang rửa máu đấy à?”
Ba người đàn ông cùng lúc bước tới, ra hiệu chuẩn bị xông vào phòng. Tiểu Lễ hoảng loạn, hét lên:
“Mấy người làm gì vậy?! Xâm nhập nhà dân đấy, tôi báo công an bây giờ!”
Chưa kịp gọi, một quyển sổ đen đã lướt ngang mặt hắn. Cố Ứng Châu đưa thẻ, giọng lạnh như băng:
“Tổ trọng án Tây Cửu Long. Anh bị nghi ngờ vi phạm Luật bảo vệ động vật. Tránh ra.”
Tiểu Lễ cứng họng. Cột sống như dính đá lạnh. Hắn nghiến răng, lùi sang bên.
Cánh cửa phòng mở ra, mùi tanh của máu trộn lẫn với mùi khai xộc thẳng vào mũi. Hiện trường là nhà vệ sinh nhỏ hẹp. Gạch lát sàn vẫn còn vết máu chưa chùi sạch. Ống cống dính đầy lông màu cam và trắng, bên cạnh còn có vài chiếc răng nanh chưa bị dội xuống.
Không cần hỏi, ai cũng hiểu đã xảy ra chuyện gì ở đây.
Hắn không dọn hiện trường ngay sau khi ra tay, chứng tỏ hoàn toàn không sợ bị điều tra. Hắn quá tự tin, nghĩ không ai nghi ngờ được mình. Nhưng hành vi ở lại phòng suốt mấy tiếng, trong không gian đặc quánh mùi máu không phải là người bình thường có thể chịu nổi.
Kẻ như thế không khác gì sát nhân. Và đúng như lý thuyết tâm lý tội phạm, hung thủ luôn quay lại hiện trường để “chiêm ngưỡng kiệt tác” của mình.
Dì Quỳnh không chịu nổi, bật khóc nức nở.
“Cậu! Cậu là hung thủ! Tôi đối xử với cậu đâu có tệ! Sao cậu lại làm chuyện như vậy?!”
Hắn cười lạnh:
“Con mèo đó là của bà nuôi đúng không? Mỗi lần phát tình là nó kêu gào suốt, làm bạn gái tôi không chịu ở lại qua đêm. Nó không đáng chết thì ai đáng?”
“Còn bà nữa, bà già lắm chuyện. Tôi chơi với bạn gái tới nửa đêm, bà cũng phải xen vào. Chỉ còn chút nữa thôi là tôi thành công, vậy mà…”
Ánh mắt hắn trợn ngược, bùng lên hung ác. Dì Quỳnh run rẩy, lùi lại phía sau, không dám nói thêm lời nào.