Chị dâu của Lưu Tuệ Trân cũng phụ họa: “Đúng đúng! Dạng Dạng, tối nay mợ làm cho con món giò hầm táo đỏ. Món này là món tủ của mợ đấy, đảm bảo con thích mê!” Giò hầm táo đỏ là một món ăn ngọt kinh điển của Dung Thành, ngày thường chỉ được làm để chiêu đãi những vị khách đặc biệt quan trọng.
Đối mặt với sự cưng chiều của mọi người, Phương Tri Ý chỉ cảm thấy trong lòng mềm mại, ấm áp. Cô cười nói: “Con cảm ơn mợ ạ.”
Phùng Thúy Chi, vợ của Lữu Vĩnh Thành bị một tiếng “mợ” ngọt ngào của Phương Tri Ý làm cho lòng dạ như mềm nhũn ra. Cô bé này vừa xinh đẹp, vừa dịu dàng, giọng nói lại thanh thoát, giòn giã, thật khiến người ta không thể không yêu mến.
“Đừng khách sáo với mợ chứ!”
Lúc này, Đồng Nguyên cũng chen vào: “Mợ ơi, cháu cũng muốn ăn!”
Phùng Thúy Chi nhìn cô bé sợ mình bị quên lãng, nựng yêu bẹo má: “Không quên cháu đâu, Đồng Nguyên nhà mình cũng có phần mà!”
Gia đình họ Lưu tương đối đơn giản, ngoài ông bà ngoại thì chỉ có cậu Lưu Vĩnh Thành và mợ Phùng Thúy Chi. Cậu Lưu Vĩnh Thành chỉ có hai người con: lớn là con gái, làm công nhân nhà máy dệt, hai năm trước đã lấy chồng ở huyện Bình Nam; nhỏ là con trai, tốt nghiệp cấp ba đúng lúc hưởng ứng phong trào lên núi xuống làng, mang theo nhiệt huyết của tuổi trẻ đi theo đông đảo thanh niên xuống nông thôn xây dựng Tổ quốc.
Phùng Thúy Chi rất thích trẻ con, nhưng các con bà đều đã lớn và đều không ở gần bên. Giờ trong nhà có ba đứa trẻ, bà mừng không sao kể xiết.
Lúc nấu cơm, Phương Tri Ý cũng theo vào bếp, định giúp đỡ. Lưu Tuệ Trân biết Dạng Dạng ở nhà khi nào sức khỏe khá hơn một chút sẽ phụ giúp chị dâu Đoan Ngọc, nên không từ chối. Lưu Tuệ Trân thật lòng coi Dạng Dạng như con gái mình, tự nhiên cũng hiểu tâm tư của cô, sẽ không để cô cảm thấy mình là gánh nặng cho gia đình.
“Dạng Dạng, con có muốn học mợ làm món này không?” Phùng Thúy Chi nghe cô em chồng nói về tình hình của Dạng Dạng, thân thể yếu ớt, nhưng khi khỏe thì thật ra cũng không khác gì người bình thường. Nghĩ đến việc con bé sắp đến Tây Bắc, chắc chắn sẽ không quen đồ ăn ở đó, nếu ở đây có thể học được vài món mình thích sau này còn có thể tự cải thiện bữa ăn.
“Dạ được ạ!” Phương Tri Ý cười tươi, sáp lại gần Phùng Thúy Chi, đôi mắt cong cong như vầng trăng khuyết.
Phùng Thúy Chi thấy vậy, biết cô bé thật lòng yêu thích, liền yên tâm chỉ dạy.
Giò hầm táo đỏ là món ăn ngọt nổi tiếng của Dung Thành, món này có màu sắc đỏ tươi bắt mắt, chất thịt mềm dẻo, hương vị ngọt dịu và thơm nồng, ăn vào không ngấy, da thịt tan chảy trong miệng, còn thịt nạc thì thơm ngọt, mềm mịn. Hơn nữa, táo đỏ có tính ôn, còn có thể bổ tỳ ích khí, dưỡng huyết an thần, rất thích hợp cho những người thể trạng yếu, vừa không ngán lại có thể bồi bổ.
Đồ ăn ở Dung Thành ngoài vị ngọt thì thường thiên về cay nồng. Gia đình họ Lưu lại thích khẩu vị đậm đà hơn một chút, nhưng Phương Tri Ý lại không như vậy, để phù hợp với khẩu vị của cô, từ khi Phương Tri Ý đến, họ cũng ăn thanh đạm hơn. Tuy nhiên, Lưu Vĩnh Thành đi làm ở nhà máy, nếu bữa nào không ăn chút cay cay thì ông không thấy có sức. Vì vậy, mỗi bữa Phùng Thúy Chi đều sẽ xào riêng cho ông một món ăn đậm đà hương vị.
Khi ớt và hoa tiêu cay nồng được cho vào chảo, mùi cay xè lập tức lan tỏa. Cơ thể Phương Tri Ý hiện tại vẫn chưa chịu được, nên khi xào món cay, cô liền xin phép về phòng nghỉ ngơi trước.
Trong bếp chỉ còn lại Phùng Thúy Chi và Lưu Tuệ Trân, hai người nói chuyện tự nhiên, thoải mái hơn.
Phùng Thúy Chi vừa nhặt rau, vừa nghiêng đầu nói khẽ:
“Tiểu Trân này, chị nói thật lòng: hay là em đưa Dạng Dạng về làm con mình đi. Nam Thành không ở được thì cũng đừng để con bé quay về Tây Bắc làm gì. Thời buổi này, điều kiện Dung Thành mình tuy chẳng hơn ai, nhưng ít ra vẫn còn cơm trắng canh rau, khí hậu cũng hiền lành, đất lành chim đậu. Còn ở cái vùng biên cương ấy, mùa hè thì gió cát thổi muốn bay cả mắt, mùa đông lại bão tuyết phủ đầu—cái thân thể yếu ớt của Dạng Dạng làm sao chịu cho thấu?”
"Hơn nữa, em xem, dù là cha mẹ, hay anh chị, rồi tụi nhỏ đều thích Dạng Dạng lắm!”
Tuy nhà họ không có điều kiện bằng gia đình giáo sư Phương, nhưng Dung Thành dù sao cũng tốt hơn biên cương nhiều. Nơi đó không gió cát thì cũng bão tuyết, cái thân thể yếu ớt ấy làm sao chịu nổi? Chẳng nói đâu xa, thời gian trước, lão nhị nhà họ theo hưởng ứng phong trào theo nhóm thanh niên trí thức xuống nông thôn, nói là nông thôn nhưng điều kiện so ra vẫn đỡ hơn biên cương nhiều. Vậy mà ngày về, người đen nhẻm như hòn than, gầy sộp, trông chẳng khác nào con gấu đất. Bà nhìn mà lòng quặn lại, không biết đã phải chịu khổ cực cỡ nào, ăn uống sinh hoạt ra sao mới thành ra nông nỗi ấy.
Phùng Thúy Chi thực lòng yêu mến Dạng Dạng. Không chỉ vì bản thân Dạng Dạng xứng đáng với sự yêu mến đó, mà còn vì mối ân tình sâu nặng của Phương gia đối với Lưu gia năm xưa.
Nhiều năm trước, lão Lưu nhà bà trên đường tan ca đêm bị ngã gãy chân. Hai đứa con thì đang tuổi ăn học, bố chồng lại nằm liệt giường, trong nhà bấy giờ chẳng khác gì cái nồi cơm đã cạn, vét sạch cũng chẳng còn hạt gạo nào. Quẫn trí, bà mới đánh liều tìm đến cô em chồng xin giúp đỡ. Nào biết vào thời điểm đó, cô em chồng ở xa cũng không mấy dễ dàng.
Trong tình thế cấp bách, cô em chồng nghĩ đến nhờ cậy gia đình giáo sư Phương. Nói thật lòng, cả bà lẫn em chồng khi đó đều không hy vọng gì nhiều, thời buổi này ai cũng chật vật lo cho chính mình, vay mượn là chuyện cực chẳng đã, mà mượn tiền lại là chuyện lớn lắm. Kết quả là, người ta không nói một lời, sáng hôm sau đã gửi tiền về. Món tiền đó với gia đình bà lúc đó là tiền cứu mạng, cũng là một khoản tiền rất lớn, phải mất cả năm trời gia đình bà mới trả hết. Vậy mà trong suốt ngần ấy thời gian, người nhà họ Phương chưa một lần mở miệng nhắc đến chuyện ấy. Không hỏi, không giục, cũng không vì đã từng giúp người mà giữ lấy thái độ trịch thượng. Làm ơn mà như không, giúp người mà không để lại dấu vết.
Ân nghĩa ấy, Phùng Thúy Chi mang theo suốt cả đời, không dám quên. Giờ đây, nhà họ Phương lâm vào bước đường khó, Dạng Dạng lại thân cô thế cô nơi đất khách, trong lòng bà cứ trăn trở mãi, nếu có thể, chỉ cần còn sức, còn khả năng, bà nhất định muốn làm chút gì đó cho họ, giống như cái cách mà năm xưa họ đã không ngần ngại dang tay cứu lấy gia đình bà giữa cơn hoạn nạn.
Nghe đến chuyện này, Lưu Tuệ Trân chỉ khẽ lắc đầu, bất đắc dĩ thở dài:
“Chị dâu, chị nghĩ em không từng nghĩ đến việc nhận con bé làm con sao? Có điều... em thật sự không có cái bản lĩnh ấy.”
Giọng bà nhẹ nhưng đầy chua chát, rồi lặng lẽ kể cho chị dâu nghe về tình hình ở Nam Thành mấy năm nay.
Thời buổi rối ren, người người lo thân chưa xong, vậy mà vẫn có kẻ thừa gió bẻ măng, chuyên nhằm vào các cô gái trẻ để giở trò đê tiện. Dạng Dạng xinh xắn lại có chút xuất thân, chính là loại người dễ bị dòm ngó nhất. Nhà họ Phương dù giờ sa sút, nhưng năm xưa cũng từng là gia đình có danh tiếng, của cải không ít, càng khiến những kẻ gian sinh lòng tham. May mà Dạng Dạng còn có hai người anh trai có bản lĩnh, ở trong quân cũng có chút tiếng nói, chứ nếu không, lần này e là chẳng thể dễ dàng đưa Dạng Dạng rời đi.
Nghe đến đó, sắc mặt Phùng Thúy Chi lập tức sa sầm. Bà khẽ “phì” một tiếng, không giấu nổi vẻ khinh miệt:
“Lũ khốn kiếp! Loạn thế mới sinh tà tâm, toàn hạng người thấy gái đẹp là đỏ mắt, chẳng bằng cầm thú! Tội nghiệp con bé, còn nhỏ tuổi mà đã phải chịu bao nhiêu ghê sợ thế này...”
Lưu Tuệ Trân thở dài:
“Tây Bắc tuy là gian nan, nhưng lúc này, đối với Dạng Dạng chỉ có nơi đó là đủ an toàn. Dù gì bên ấy cũng có anh ruột của Dạng Dạng, Tri Thư là quân nhân mang công trạng, có Tri Thư ở đấy, chẳng ai dám làm càn.”
“Đúng là lý lẽ này.” Lúc này, Phùng Thúy Chi cũng chỉ có thể đồng tình, chỉ than cho cô bé tội nghiệp, vô cớ chịu những tai ương này.
Bùi Từ vừa đặt chân đến Dung Thành sáng nay, vốn định đợi giải quyết xong công vụ rồi mới đi đón cô gái nhỏ nhà họ Phương. Nhưng nghĩ lại, bản thân dù gì cũng là người xa lạ, tuy cùng là chiến hữu với Tri Lễ – anh trai cô bé – nhưng đến gặp mặt còn chưa từng. Nhìn điệu bộ lo lắng của Tri Lễ lúc rời đi, Bùi Từ đoán cô bé ấy hẳn là người nhút nhát, sống nội tâm. Nếu đến lúc cần đưa người đi mà cô bé không chịu theo, vậy chẳng phải sẽ rắc rối sao ? Thế nên vừa báo cáo xong ở doanh trại, anh liền lấy địa chỉ nhà họ Lưu rồi lái ngay một chiếc xe quân dụng đi thẳng.
“Ơ ... Bùi trung đội trưởng…”
Một đồng đội đi cùng nhìn thấy, tưởng có nhiệm vụ gì khẩn, vội hô gọi theo. Nhưng Bùi Từ chẳng buồn ngoái đầu, cứ thế mà rồ ga một mạch.
“Anh ấy đi đâu thế nhỉ?”
“Không lẽ có công vụ gấp?”
“Ấy khoan, hình như… hôm qua tôi nghe loáng thoáng, Bùi trung đội trưởng muốn giúp Phương trung đội trưởng đón em gái cơ mà!”
Vài người đứng bên nghe xong lập tức nhao nhao.
“Nói tới em gái của Phương trung đội trưởng, có ai trong doanh trại ta gặp bao giờ chưa?”
Mọi người lắc đầu.
Chợt có một người mắt tinh tai thính hạ giọng chen vào:
“Chắc là cô bé nhỏ nhắn thôi.”
“Sao cậu biết?”
Kẻ vừa nói cười hì hì, ra vẻ thần bí:
“Hôm qua trên tàu hỏa, tôi thấy Bùi trung đội trưởng đứng nửa ngày nhìn một cặp vợ chồng đang dỗ đứa bé. Mà tôi nói thật nhé, anh ấy nhìn chăm chú lắm, như thể đang học hỏi cách bế bồng, dỗ dành trẻ con vậy!”
“Trời ơi! Anh ấy mà học dỗ trẻ con á? Ha ha ha…”
Cả đám người lập tức cười rộ lên, tiếng cười vang cả sân. Một người bụm miệng cười ngặt nghẽo:
“Tưởng tượng cảnh Bùi trung đội trưởng mặt lạnh như tiền mà phải bế đứa nhỏ khóc oe oe… ha ha ha… chắc là gà bay chó sủa!”
“Chuyến về doanh lần này xem ra không chán rồi! Chờ xem trò hay!”
Mong chờ quá đi mất !
Chỉ là nhóm người này nào có ngờ, họ không những không được chứng kiến cảnh Bùi Từ "gà bay chó sủa", mà ngược lại còn bị Bùi Từ “xếp lịch” đi trước. Đến khi họ trở lại căn cứ và biết cô bé mắt ngọc mày ngài, xinh xắn đáng yêu kia chính là cô gái nhỏ nhà họ Phương, họ hối hận đến ruột gan đều quặn thắt! Đúng là lời đồn làm người ta lầm lạc!